CÁC DẠNG MÀU SẮC VÀ VÂN TRÊN LÔNG MÈO
Sarah Hartwell/Messybeast.com – Dịch lại bởi Thái Hà (Vui lòng giữ nguồn dịch nếu copy lại).
Bài viết này không chuyên sâu vào nguồn gốc của gen mà phân tích về các dạng màu sắc và hoa văn trên lông mèo. Các tên gọi quốc tế sẽ được giữ nguyên không dịch nhằm đảm bảo tính chính xác của tên gọi màu sắc theo thuật ngữ quốc tế. Nếu các bạn cần tìm hiểu thêm thông tin có thể viết thư trực tiếp cho tôi để hỏi.
1. Màu đơn:
Có tổng cộng 9 tông màu đơn tông tối (có gốc đen) và 3 tông màu đặc nhạt (gốc đỏ). Những tông màu gốc đỏ có gen màu đơn, nhưng vì cách phân bố sắc tố đỏ hòa với gen non-agouti sẽ dẫn đến hình thành màu lông vằn.
Màu trắng là màu không hiện lên bất kỳ màu gì khác trên sợi lông. Mèo có thể có gen màu đen, gen màu kèm v.v nhưng mà sự hiện diện của của gen màu trắng che lấp màu sắc. Những con mèo màu trắng là kết quả hình thành từ việc hiện hữu quá mạnh của gen chấm màu trắng (sẽ thảo luận sau).
Sau này, có 2 gen màu biến đổi, hình thành thêm 2 màu đặc gọi là Amber (Những chú mèo rừng Nauy) và Russet (Mèo Miến Điện). Việc này làm cho sắc tố đen nhạt dần và trở nên đỏ. Biểu đồ dưới dây thuyết minh cho điều đó.
Có tổng cộng 9 tông màu đơn tông tối (có gốc đen) và 3 tông màu đặc nhạt (gốc đỏ). Những tông màu gốc đỏ có gen màu đơn, nhưng vì cách phân bố sắc tố đỏ hòa với gen non-agouti sẽ dẫn đến hình thành màu lông vằn.
Màu trắng là màu không hiện lên bất kỳ màu gì khác trên sợi lông. Mèo có thể có gen màu đen, gen màu kèm v.v nhưng mà sự hiện diện của của gen màu trắng che lấp màu sắc. Những con mèo màu trắng là kết quả hình thành từ việc hiện hữu quá mạnh của gen chấm màu trắng (sẽ thảo luận sau).
Sau này, có 2 gen màu biến đổi, hình thành thêm 2 màu đặc gọi là Amber (Những chú mèo rừng Nauy) và Russet (Mèo Miến Điện). Việc này làm cho sắc tố đen nhạt dần và trở nên đỏ. Biểu đồ dưới dây thuyết minh cho điều đó.
2i. Gen chấm trắng:
Gen chấm trắng làm lên những mảng trắng. Bất kể màu nào cũng có thể có mảng trắng. Nói chung, một chú mèo có 1 gen chấm trắng sẽ có thể hiện mảng trắng từ 0% cho đến 50% trên lông, và nếu có 2 gen chấm trắng thì tỉ lệ trắng tăng lên từ 50-100% như hình minh họa dưới đây:
Gen chấm trắng làm lên những mảng trắng. Bất kể màu nào cũng có thể có mảng trắng. Nói chung, một chú mèo có 1 gen chấm trắng sẽ có thể hiện mảng trắng từ 0% cho đến 50% trên lông, và nếu có 2 gen chấm trắng thì tỉ lệ trắng tăng lên từ 50-100% như hình minh họa dưới đây:
2ii. Những dạng khoang trắng khác:
Những dạng khoang trắng khác không liên quan đến gen chấm trắng. Một vài khoang trắng xuất hiện vì sự kết hợp giữa những gen mới đột biến (Ví dụ như gen đột biến Finnish, gen đột biết màu loang nâu) và một số do phát triển bất thường hay do bị chấn thương/ốm
Những dạng khoang trắng khác không liên quan đến gen chấm trắng. Một vài khoang trắng xuất hiện vì sự kết hợp giữa những gen mới đột biến (Ví dụ như gen đột biến Finnish, gen đột biết màu loang nâu) và một số do phát triển bất thường hay do bị chấn thương/ốm
3. Vằn Khoang
Các hoa văn vằn chính bao gồm Ticked (chấm chấm), Mackerel (khoang vằn nhiều sọc ngang thân), Classic (vân tròn thành mảng to trên thân), và Spotted (Chấm to như lông con báo). Vân Ticked là những sợi lông có chấm màu nhỏ trên đỉnh, không tạo ra những sọc ngang dọc trên thân trừ ở chân, đuôi, đầu và vai. Vân mackerel có nhưng sọc mỏng trong khi đó Vân Classic tạo những mảng màu cách biệt. Vân spotted có thể do những mảng sọc mackerel đứt đoạn hoặc do gen chấm báo tạo ra. Một vài dạng vân classic có mảng tối do màu lông đậm, những khu vực vằn có thể bị giảm đi.
Cũng có thêm một vài biến thể hoa văn của lông vằn khoang xuất hiện ở một số loài, đột biến hoặc cho lai với những chủng vật hoang dã. Nghiêm túc mà nói, mảng vân Bengal phải là những liên kết theo chiều ngang xuất phát từ loài báo Châu Á, nhưng hiện tại hầu hết Bengal đã bị điều chỉnh thành hoa văn Classic.
Hoa văn của vằn khoang và màu sắc được minh họa ở 2 bảng dưới đây. Vằn khoang đỏ biến màu từ màu vàng đất cho đến màu đỏ rực được nhìn thấy trong những chú mèo chuẩn show.
Các hoa văn vằn chính bao gồm Ticked (chấm chấm), Mackerel (khoang vằn nhiều sọc ngang thân), Classic (vân tròn thành mảng to trên thân), và Spotted (Chấm to như lông con báo). Vân Ticked là những sợi lông có chấm màu nhỏ trên đỉnh, không tạo ra những sọc ngang dọc trên thân trừ ở chân, đuôi, đầu và vai. Vân mackerel có nhưng sọc mỏng trong khi đó Vân Classic tạo những mảng màu cách biệt. Vân spotted có thể do những mảng sọc mackerel đứt đoạn hoặc do gen chấm báo tạo ra. Một vài dạng vân classic có mảng tối do màu lông đậm, những khu vực vằn có thể bị giảm đi.
Cũng có thêm một vài biến thể hoa văn của lông vằn khoang xuất hiện ở một số loài, đột biến hoặc cho lai với những chủng vật hoang dã. Nghiêm túc mà nói, mảng vân Bengal phải là những liên kết theo chiều ngang xuất phát từ loài báo Châu Á, nhưng hiện tại hầu hết Bengal đã bị điều chỉnh thành hoa văn Classic.
Hoa văn của vằn khoang và màu sắc được minh họa ở 2 bảng dưới đây. Vằn khoang đỏ biến màu từ màu vàng đất cho đến màu đỏ rực được nhìn thấy trong những chú mèo chuẩn show.
3a. Màu Vằn Ticked
Những màu sắc tiêu chuẩn khác nhau trong vằn ticked:
Những màu sắc tiêu chuẩn khác nhau trong vằn ticked:
3b. Vằn Charcoal Bengal
Một loại gen thừa hưởng từ Báo Châu Á đã phát triển trên dòng hoa văn cải tiến của Bengal. Hoa văn Charcoal giảm lượng màu đỏ trên lông và tạo thêm nhiều mảng màu tối “Zorro” trên mặt và trên lưng.
Một loại gen thừa hưởng từ Báo Châu Á đã phát triển trên dòng hoa văn cải tiến của Bengal. Hoa văn Charcoal giảm lượng màu đỏ trên lông và tạo thêm nhiều mảng màu tối “Zorro” trên mặt và trên lưng.
4. Màu Đồi mồi Tortoiseshell, Tortoiseshell-and-White (Calico)
Những chú mèo có màu đồi mồi là kết quả của sự kết hợp giữa gen màu tối với gen màu sáng. Điều này có nghĩa là kết hợp giữa đen và đỏ, hoặc là xám xanh với xám sáng như lilac/lavender với màu kem. Những khu vực có sắc tố đỏ (đỏ, kem, hồng đào) có thể cho thấy mảng màu khoang. Ở những chỗ không có màu trắng hoặc ít màu trắng, hai màu đồi mồi có thể hòa lẫn vào nhau. Với độ sáng trắng xuất hiện nhiều hơn, màu được hình thành rõ nét hơn. Lý do là vì các tế bào sắc tố lan rộng trong quá trình bào thai. Tại Mỹ, dòng mèo màu này được gọi là Calico.
Bởi vì gen màu đỏ nằm trên nhiễm sắc thể X và yêu cầu là phải có XX (con cái), màu đồi mồi hiếm khi xuất hiện trên lông mèo đực. Thỉnh thoảng vẫn xảy ra điều này vì có đột biến gen.
Những chú mèo có màu đồi mồi là kết quả của sự kết hợp giữa gen màu tối với gen màu sáng. Điều này có nghĩa là kết hợp giữa đen và đỏ, hoặc là xám xanh với xám sáng như lilac/lavender với màu kem. Những khu vực có sắc tố đỏ (đỏ, kem, hồng đào) có thể cho thấy mảng màu khoang. Ở những chỗ không có màu trắng hoặc ít màu trắng, hai màu đồi mồi có thể hòa lẫn vào nhau. Với độ sáng trắng xuất hiện nhiều hơn, màu được hình thành rõ nét hơn. Lý do là vì các tế bào sắc tố lan rộng trong quá trình bào thai. Tại Mỹ, dòng mèo màu này được gọi là Calico.
Bởi vì gen màu đỏ nằm trên nhiễm sắc thể X và yêu cầu là phải có XX (con cái), màu đồi mồi hiếm khi xuất hiện trên lông mèo đực. Thỉnh thoảng vẫn xảy ra điều này vì có đột biến gen.
5. Đồi mồi vằn ( Có hoặc không có màu trắng) Tortoiseshell Tabby (with/without white)
Khi mà màu đồi mồi và vằn hoa văn được kết hợp, mèo sẽ có loại hình vằn khoang khác biệt, vd như đen/nâu khoang với vằn đỏ thay vì màu đặc. Giống màu này được gọi là Patched tabbies ở Châu Âu và Đồi mồi ở Bắc Mỹ. Khi có thêm mảng màu trắng nữa thì được gọi là torbico ở Bắc Mỹ.
Khi mà màu đồi mồi và vằn hoa văn được kết hợp, mèo sẽ có loại hình vằn khoang khác biệt, vd như đen/nâu khoang với vằn đỏ thay vì màu đặc. Giống màu này được gọi là Patched tabbies ở Châu Âu và Đồi mồi ở Bắc Mỹ. Khi có thêm mảng màu trắng nữa thì được gọi là torbico ở Bắc Mỹ.
6. Dòng Silver và Golden:
Những lông agouti bình thường có phần sắc tố sáng và phần sắc tố tối phù hợp với màu lông (vd như đen hay đi với nâu dành cho mèo đen, đỏ hay đi với kem dành cho mèo vàng). Khi gen màu silver xuất hiện, phần màu sáng sẽ là màu xám trắng hoặc gần như trắng. Trong những chú mèo có gen di truyền vằn khoang, màu lông sẽ có gốc silver bên dưới các loại hoa văn vằn khoang. Tùy theo độ phủ của màu trên lông sẽ khoảng cách từ tipped (chinchilla) đến shaded đến silver tabby. Khi gen màu silver kết hợp với màu đặc sẽ tạo thành smoke. Một vài chú mèo con màu smoke sẽ có vằn khi trưởng thành.
Cơ chế của gen golden cũng tương tự như silver, nhưng xuất hiện do có gen sáng nhiều hơn làm sáng vùng màu gốc lông ở phần agouti. Do đó, vẫn có tranh luận về sự tồn tại của màu ánh vàng khói. Những gen khác có thể cho ra ấn tượng của màu golden vd như cấp độ cao của refousing (người dịch chưa tìm được từ thích hợp) ở những loài có nguồn gốc hoang dã.
Những lông agouti bình thường có phần sắc tố sáng và phần sắc tố tối phù hợp với màu lông (vd như đen hay đi với nâu dành cho mèo đen, đỏ hay đi với kem dành cho mèo vàng). Khi gen màu silver xuất hiện, phần màu sáng sẽ là màu xám trắng hoặc gần như trắng. Trong những chú mèo có gen di truyền vằn khoang, màu lông sẽ có gốc silver bên dưới các loại hoa văn vằn khoang. Tùy theo độ phủ của màu trên lông sẽ khoảng cách từ tipped (chinchilla) đến shaded đến silver tabby. Khi gen màu silver kết hợp với màu đặc sẽ tạo thành smoke. Một vài chú mèo con màu smoke sẽ có vằn khi trưởng thành.
Cơ chế của gen golden cũng tương tự như silver, nhưng xuất hiện do có gen sáng nhiều hơn làm sáng vùng màu gốc lông ở phần agouti. Do đó, vẫn có tranh luận về sự tồn tại của màu ánh vàng khói. Những gen khác có thể cho ra ấn tượng của màu golden vd như cấp độ cao của refousing (người dịch chưa tìm được từ thích hợp) ở những loài có nguồn gốc hoang dã.
7. Colourpoints
Có 3 loại gen point được tìm thấy ở loài mèo theo cấp độ từ đậm đến nhạt. Nguồn gốc do gen bạch tạng gây ra làm ở những phần lạnh của cơ thể phát triển màu tối hơn. Đầu tiên là giống mèo có màu tương phản cao – gọi là màu Siêm được biết đến bởi gen point của giống màu Hima. Giống thứ hai có màu tương phản thấp hơn là giống mèo Miến Điện, thường được gọi là màu Point Sepia (Vì lần đầu tiên được thấy là màu nâu/sepia). Màu trung gian giữa hai gen màu được gọi là Mink (Tonkinese) được tạo ra khi hai dòng gen màu Siêm và màu Miến Điện phối với nhau.
Những điểm Point này có thê là màu đặc, màu vằn hoặc màu đồi mồi. Với màu Siêm thì phần đồi mồi sẽ là màu kem hoặc màu trắng sữa mặc dù một vài con mèo có những màu lạ khác đặc biệt theo tuổi của chúng. Với màu Miến Điện, phần đồi mồi sẽ là những mảng màu nhạt hơn một chút. Với Mink, độ phủ màu đồi mồi là khoảng giữa của những mảng màu đậm hơn. Nếu màu Point có vằn thì còn được gọi là Lynx point.
Có 3 loại gen point được tìm thấy ở loài mèo theo cấp độ từ đậm đến nhạt. Nguồn gốc do gen bạch tạng gây ra làm ở những phần lạnh của cơ thể phát triển màu tối hơn. Đầu tiên là giống mèo có màu tương phản cao – gọi là màu Siêm được biết đến bởi gen point của giống màu Hima. Giống thứ hai có màu tương phản thấp hơn là giống mèo Miến Điện, thường được gọi là màu Point Sepia (Vì lần đầu tiên được thấy là màu nâu/sepia). Màu trung gian giữa hai gen màu được gọi là Mink (Tonkinese) được tạo ra khi hai dòng gen màu Siêm và màu Miến Điện phối với nhau.
Những điểm Point này có thê là màu đặc, màu vằn hoặc màu đồi mồi. Với màu Siêm thì phần đồi mồi sẽ là màu kem hoặc màu trắng sữa mặc dù một vài con mèo có những màu lạ khác đặc biệt theo tuổi của chúng. Với màu Miến Điện, phần đồi mồi sẽ là những mảng màu nhạt hơn một chút. Với Mink, độ phủ màu đồi mồi là khoảng giữa của những mảng màu đậm hơn. Nếu màu Point có vằn thì còn được gọi là Lynx point.
7a. Ragdoll & Bicolourpoints
Một vài giống mèo có gen kết hợp màu colourpoint (thường là mèo siêm) với gen màu trắng. Nhà nhân giống thường chọn lọc để có phần gen màu trắng càng ít càng tốt để không lấn át màu colourpoint. Phân tách gen màu được tin tưởng có thể kiểm soát được sự hình thành của màu trắng trên một số giống.
Một vài giống mèo có gen kết hợp màu colourpoint (thường là mèo siêm) với gen màu trắng. Nhà nhân giống thường chọn lọc để có phần gen màu trắng càng ít càng tốt để không lấn át màu colourpoint. Phân tách gen màu được tin tưởng có thể kiểm soát được sự hình thành của màu trắng trên một số giống.
8. Gen không chính thống: Hổ phách và nâu đỏ
Hai loại gen này được tạo ra bởi gen màu đậm mờ dần, nằm sau tông màu đỏ. Amber (Ở mèo rừng Nauy) tạo ra màu đen mờ dần thành màu hổ phách, và màu xám mờ dần thành màu hổ phách nhạt. Những chú mèo con được sinh ra với màu đen hoặc xám và mờ dần khi lớn lên, bắt đầu từ phần lưng. Màu nâu đỏ được tìm thấy ở mèo Miến Điện, mèo con được sinh ra với màu li lắc/ sô cô la và sau đó chuyển thành màu vàng đậm. Sự biến đổi màu được minh họa dưới đây:
Hai loại gen này được tạo ra bởi gen màu đậm mờ dần, nằm sau tông màu đỏ. Amber (Ở mèo rừng Nauy) tạo ra màu đen mờ dần thành màu hổ phách, và màu xám mờ dần thành màu hổ phách nhạt. Những chú mèo con được sinh ra với màu đen hoặc xám và mờ dần khi lớn lên, bắt đầu từ phần lưng. Màu nâu đỏ được tìm thấy ở mèo Miến Điện, mèo con được sinh ra với màu li lắc/ sô cô la và sau đó chuyển thành màu vàng đậm. Sự biến đổi màu được minh họa dưới đây:
9. Màu mắt
Màu mắt liên quan đến màu lông. Một vài giống mèo ngẫu nhiên có phạm vi gen màu mắt rất rộng trong khi đó màu mắt của một số giống mèo có gia phả được chỉ định rất nghiêm ngặt. Ở một số giống mèo khác, gen chỉ định màu/hoa văn đồng thời ảnh hưởng đến màu mắt. Vd như Mắt xanh ở màu colour point (Siêm).
Màu mắt liên quan đến màu lông. Một vài giống mèo ngẫu nhiên có phạm vi gen màu mắt rất rộng trong khi đó màu mắt của một số giống mèo có gia phả được chỉ định rất nghiêm ngặt. Ở một số giống mèo khác, gen chỉ định màu/hoa văn đồng thời ảnh hưởng đến màu mắt. Vd như Mắt xanh ở màu colour point (Siêm).
10. Hiệu ứng lấp lánh
Hiệu ứng lấp lánh có thể là biểu hiện của cấu trúc lông hoặc do màu trắng hoặc là sự chuyển đổi của chấm màu trên lông tạo ra. Ngày nay, hiệu ứng này được nhìn thấy trên màu lông xám (Chausies), màu ánh bạc (Korat, Mèo Xám Nga) và Satin (Mèo lông xoăn Tennesee). Hiệu ứng lấp lánh cũng được tìm thấy trên lông của loài Bengal.
11. Dòng màu Tan
Dòng màu này chưa được nhìn thấy trên mèo, nhưng đã thấy trên chó và được gọi là alen (gen thay thế) ở màu lông agouti. Biểu đồ dưới đây gợi ý về cách mà mèo màu và tan nhìn như thế nào nếu xảy ra. Về lý thuyết, có thể đây là một dạng kết hợp giữa điểm màu trắng, màu colourpoint và màu silver/golden. Khả năng màu tabby-tan có thể phụ thuộc vào gen tan như thế nào. Nếu xảy ra ở mèo, đó là sự kết hợp giưã những loại gen đã tồn tại.
Dòng màu này chưa được nhìn thấy trên mèo, nhưng đã thấy trên chó và được gọi là alen (gen thay thế) ở màu lông agouti. Biểu đồ dưới đây gợi ý về cách mà mèo màu và tan nhìn như thế nào nếu xảy ra. Về lý thuyết, có thể đây là một dạng kết hợp giữa điểm màu trắng, màu colourpoint và màu silver/golden. Khả năng màu tabby-tan có thể phụ thuộc vào gen tan như thế nào. Nếu xảy ra ở mèo, đó là sự kết hợp giưã những loại gen đã tồn tại.
12. Dòng Merle (lốm đốm)
Loại Gen này chưa được tìm thấy ở mèo, nhưng đã thấy ở chó. Nói chung, loại gen này tạo ra những mảng màu đậm hơn trên nền nhạt. Ví dụ như những mảng chấm đen trên nền xám, chấm đen trên nền màu caramel, chấm đỏ trên nền kem. Dạng màu này lại khác với màu đồi mồi ở chỗ những mảng màu đồi mồi là sự pha trộn của màu gốc sẫm với một màu gốc đỏ
Về lý thuyết, dòng màu này có thể kết hợp với những màu và hoa văn đã có, nhưng chỉ có thể nhìn thấy trên những bộ lông nền nhạt hơn ví dụ như xám/kem đồi mồi với khoang đen, hoặc vằn lilắc với khoang sô cô la. Cũng theo lý thuyết, sẽ có thể kết hợp với cả màu trắng, màu colourpoint và silver/golden. Biểu đồ bên dưới thể hiện khả năng đột biến có thể xảy ra.
13. Dòng màu/hoa văn ngoại lai
Một vài màu và hoa văn có gốc gác từ mèo rừng. Ví dụ như vân charcoal của Bengal, vân grizzle của Chausies và những vân xoáy dạng cẩm thạch/vân áng, chấm báo được nhìn thấy ở một vài giống lai giữa mèo thuần và mèo rừng. 2 hoa văn dưới đây là có nguồn gốc lai từ mèo rừng và mèo thuần. Minh họa mèo đốm Rusty là kết quả lai tạo chọn lọc F1 với mèo thuần. Hình minh họa Mèo Sand dựa trên hình ảnh của mèo con lứa F1.
Một vài màu và hoa văn có gốc gác từ mèo rừng. Ví dụ như vân charcoal của Bengal, vân grizzle của Chausies và những vân xoáy dạng cẩm thạch/vân áng, chấm báo được nhìn thấy ở một vài giống lai giữa mèo thuần và mèo rừng. 2 hoa văn dưới đây là có nguồn gốc lai từ mèo rừng và mèo thuần. Minh họa mèo đốm Rusty là kết quả lai tạo chọn lọc F1 với mèo thuần. Hình minh họa Mèo Sand dựa trên hình ảnh của mèo con lứa F1.
14. Màu đột biến ở các loài họ mèo lớn
Đột biến được thấy ở những loài họ mèo đốm lớn vì đây là loại gen phổ biến nhất, cũng có một vài đột biến ở sọc ngang, đốm rosette hoặc vân áng như biểu đồ dưới đây.
Đột biến được thấy ở những loài họ mèo đốm lớn vì đây là loại gen phổ biến nhất, cũng có một vài đột biến ở sọc ngang, đốm rosette hoặc vân áng như biểu đồ dưới đây.